Nguồn gốc truyền thừa JONANGPA và mối liên hệ với Giáo lý Kalachakra
- Định nghĩa: Kalachakra có nghĩa là ‘Bánh xe thời gian’ trong tiếng Phạn. Hệ thống Mật điển Kalachakra là một trong những hệ thống Mật tông tiên tiến nhất trong Phật giáo Tây Tạng và là một trong những hệ thống Mật tông cuối cùng được đưa từ Ấn Độ đến Tây Tạng thông qua sự truyền giáo cuối cùng trước khi Phật giáo bị xóa sổ ở Ấn Độ.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni- Bậc Đạo sư đầu tiên của giáo lý Kalachakra
Mặc dù hệ thống Mật tông này rất tiên tiến và bí truyền, nhưng vẫn có truyền thống cung cấp nó cho đông đảo khán giả. Thực hành của các Lạt ma cao cấp là ban những quán đảnh công khai như vậy để gieo trồng càng nhiều hạt giống mạnh mẽ hoặc nguyên nhân càng tốt cho những người trong khán giả tái sinh vào Shambhala. Do đó, trong thời gian gần đây, chúng ta thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma ban lễ nhập môn và thực hành Kalchakra cho hàng trăm, hàng nghìn người. Ngoài ra, cách đây không lâu, Đức Panchen Lama thứ 11 đã ban quán đỉnh và giáo lý Kalachakra cho hơn 100.000 người!
Shambala là một vùng đất thanh tịnh ẩn giấu đâu đó trên trái đất, được cai trị bởi các vị vua giác ngộ và Mật điển Kalachakra là thực hành chính của người dân vương quốc này.
Việc thực hành này đặc biệt phù hợp với những người ở thời đại này có thể được nhìn thấy ở nguồn gốc của thực hành này. Vua xứ Shambala đã thỉnh cầu Đức Phật dạy một phương pháp thực hành Pháp mà không từ bỏ trách nhiệm thế tục! Để đáp ứng yêu cầu của ông, Đức Phật đã dạy những giáo lý đầu tiên về Kalachakra. Thật vậy, chúng ta có thể thấy tại sao việc thực hành này lại rất cần thiết trong thời đại suy đồi này, nơi mà những phiền nhiễu của thế gian tràn ngập đến nỗi tâm linh thực sự đã bị lùi lại phía sau
- KALACHAKRA ĐƯỢC BẢO TỒN TOÀN DIỆN TRONG DÒNG JONANG
Mật điển Thời Luân đến Tây Tạng qua nhiều dòng truyền thừa khác nhau. Tuy nhiên, ngày nay, Truyền thống Jonang là truyền thống duy nhất chuyên về giáo lý Thời Luân, duy trì cả những luận giải văn bản và những hướng dẫn cốt lõi sâu sắc cho Giai đoạn Thành tựu Thời Luân.
Người ta nói rằng Đức Phật lần đầu tiên dạy những giáo lý Mật thừa bí mật này ở Drepung ở Nam Ấn Độ (Amaravati). Người nhận chính là Vua Suchandra của Shambhala, người đã biên soạn tất cả giáo lý mà ông đã nhận được cũng như soạn thảo những bình luận liên quan. Dòng truyền thừa sau đó được bảy vị Pháp Vương và mười một vị Vua Kalki duy trì trước khi đến vùng đất Ấn Độ.
Cây truyền thừa Jonangpa
Trước thế kỷ thứ 10, giáo lý Kalachakra không được thực hành ở Ấn Độ. Tuy nhiên, Đại thành tựu giả Ấn Độ Manjuvajra vĩ đại được cho là đã đạt được sức mạnh kỳ diệu và du hành đến Shambhala. Khi trở về, ông truyền dòng truyền thừa cho đệ tử Shribhadra.
Học trò của Shribhadra, Pandita Dawa Gonpo vĩ đại, đã dành phần lớn cuộc đời mình ở Tây Tạng để làm việc với Dro Lotsawa để dịch toàn bộ giáo lý Kalachakra. Dòng truyền thừa sau đó được bảo tồn nhờ nhiều đạo sư Tây Tạng như Lama Lhaje Gompa, Lama Droton Namsek và Yumo Mikyo Dorje vĩ đại, những người đã chia sẻ giáo lý một cách rộng rãi.
Mandala Kalachakra
Đức Yumo Mikyo Dorje
Vào thế kỷ 13, Kunpang Thukje Tsondru đệ tử của ngài Choku Odzer đã nhận hơn 17 dòng truyền thừa Kalachakra khác nhau từ nhiều đạo sư và dành nhiều năm nhập thất để thực hành Sáu Kim Cương Du già ở một nơi được gọi là Jomonang. Sau này nơi này trở thành địa điểm của tu viện chính Jonang, còn được gọi là Shambhala thứ hai. Thukje Tsondru tiếp tục kết hợp những dòng truyền thừa này thành một dòng thực hành phi thường duy nhất vẫn là cốt lõi của chương trình giảng dạy Jonang cho đến ngày nay.
Năm 1294, Ngài Kunpang Thukje Tsondru (1243 -1313), đệ tử của ngài Choku Odzer đã tu thiền trong nhiều hang động (sgrub phug) trên dãy núi “Jomonang” thuộc vùng U-Tsang, phía Trung Nam Tây Tạng. Từ đó trở đi, việc trao truyền giáo lý được gắn với địa danh này, và những người thọ nhận và trao truyền giáo lý ở Jomonang được gọi là “Jonangpa”.
Ảnh: Ngài Kunpang Thukje Tsondru
Dòng truyền thừa Jonang tiếp tục được trì giữ bởi các bậc Đạo sư vĩ đại Jangsem Gyalwa Yeshe (1257-1320) và Yonten Gyatso (1260-1327). Sau đó, vào năm 1931, một vi học giả 29 tuổi từ vùng Dolpo (ngày nay thuộc Nepal) đã tới Jomonang. Sau một năm chu du khắp miền Trung Tây Tạng, chàng trai quay trở lại Khu thiền Great Mountain ở Jomonang để thọ nhận toàn bộ giáo lý Kalachakara Tantra của dòng truyền thừa Dro và thành tựu Pháp Kim cương Du già Vajrayoga 6 phần dưới sự hướng dẫn của Đức Yonten Gyatso , người đứng đầu dòng truyền thừa Jonang. Sau khi tiến hành nhập thất trong vài năm, vị Đạo sư trẻ tuổi đến từ Dolpo – Dolpopa Sherab Gyaltsen đã thành tựu sánh ngang với ngài Yontan Gyatso và được công nhận là người thừa kế của dòng Jonang.
Ảnh: Đạo sư vĩ đại Changsem Gyalwa Yeshe (1257-1320)
Ảnh: Ngài Kunga Yontan Gyatso (1260-1327).
Từ năm 1330 đến 1333, trong quá trình xây dựng hiện thân giác ngộ lớn nhất Tây tạng – Đại Bảo tháp Jonang, Ngài Dolpopa bắt đầu xây dựng và hệ thống hóa lại các kinh nghiệm thiền định chứng ngộ của Ngài. Năm 1334, Ngài Dolpopa hướng dẫn các học trò của mình, dịch giả Lotsawa Lodro Pal (1299-1353) và Lotsawa Sazang Mati Panchen (1294-1376) để chuẩn bị một bản dịch tiếng Tạng mới về Kalachkra Tantra và bình giảng Stainless Light. Những bản dịch Jonang này được đi sâu hơn nhằm giải thích những ẩn ý chứa đựng trong Tantra và các bình giảng nhằm làm cơ sở tạo ra các văn bản ghi chép những phát hiện mới của Ngài Dolpopa cũng như phục vụ việc giảng dạy giáo Pháp cho đại chúng của Ngài. Xem thêm tiểu sử của Đức Dolpopa: Dolpopa Sherab Gyaltsen
Hệ thống hóa giáo lý của Ngài về Giản đồ vũ trụ có nguồn gốc từ các bình giảng Stainless Light trong Tantra, Dolpopa hệ thống các chứng ngộ của ngài về sự trống rỗng bên ngoài hay zhentong – sự hiểu thông qua chiêm nghiệm việc bản chất giác ngộ của một người từ tính không với tất cả mọi thứ khác …. Đặt bối cảnh minh họa của Ngài với lịch sử Phật giáo và Bốn Quy luật về Nghiệp (Four Cosmic Eons) , Dolpopa nhấn mạnh giáo huấn về Kalachakra và Phật tính với Krtyguga hay Perfect Age.
Kết tinh trong những kiệt tác của Ngài: Ngọn núi Pháp: Đại dương nhận thức và Hội nghị kết tập mật điển thứ Tư (dòng Sakya khởi xướng), Dolpopa nêu rõ quá trình tỉnh giác của ngài gắn liền với mục đích giác ngộ của Đức Phật. Những giáo lý này được hiểu thông qua định nghĩa cụ thể (nges don) tương phản với các giáo lý của thời đại suy đồi này thiên về diễn giải ý nghĩa (Drang don).
Trong thời gian Ngài Dolpopa còn tại thế, các giáo lý này của Ngài được hướng dẫn bí mật (lkog chos) cho các đệ tử thân cận nhất của Ngài. Trong suốt 80 năm kể từ khi Ngài Dolpopa viên tịch, các giáo lý của Ngài được truyền dạy và phổ biến rộng rãi dưới tên gọi “zhentong” khiến cho những chỉ dạy của các Jonangpa được nở rộ khắp xứ Tuyết.
Kể từ khi Ngài viên tịch, Dòng truyền thừa Jonang vẫn được trì giữ lần lượt bởi các vị Dịch giả Lotsawa Lodro Pal, Chogle Namgyal, Sazang Mati Panchen, và Nyawon Kunga Pal. Sau đó, vào thế kỷ 16, Ngài Kunga Dolchok (1507-1566) đã phục hưng lại các giáo lý Jonang với cuốn sách đại diện cho tất cả những giáo lý trọng yếu nhất do Ngài tập hợp được: Một trăm lẻ tám chỉ dẫn tinh yếu của dòng Jonang.
Phong trào phục hưng dòng Jonang được tiếp sức bởi Hóa thân của ngài Kunga Dolchok, Ngài Jetsun Taranatha (1575-163) – Là vị hộ trì dòng truyền thừa không gián đoạn Jonang thứ 16 kể từ Ngài Kunpang Tukje Tsondru, Ngài Taranatha đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh khắpTây Tạng trong thế kỷ 17. Ngài đã xây dựng tu viện Taken Damcho Ling và có những đóng góp mang tính chất lịch sử cho Phật giáo. Ngài Jetsun Taranatha là một chuyên gia hàng đầu về các Mật điển của Sarma hay những bản dịch mới định kỳ. Ngài biên soạn và sắp xếp Kalachakra Tantra cũng như Mật điển quan trọng khác thành các hướng dẫn thực hành để mọi người dễ dàng tiếp cận từng phần của thực hành Pháp Kim cương Du già Vajrayoga 6 phần hay hoàn thành các thực hành Kalachakra.
Ngài Jetsun Taranatha (1575-163X)
Với các bậc chứng ngộ vĩ đại cuối thế kỷ 19 như Ngài Jamgon Kongtrul (1813-1899) và Ngài Jamyang Khyentse Wangpo (1820-1892), Phái Rime hay bất bộ phái ra đời tại tỉnh Kham, miền Đông Tây Tạng. Được phát kiến bằng việc sưu tập các bản văn và biên soạn lại chúng, bao gồm cả Kongtrul’s Five Treasures, đây là cơ hội để phục hồi truyền thống Jonang và các giáo lý Zhentong. Các giáo lý thực hành Jonang Kalachakra, đặc biệt là Zhentong không chỉ thu hút được rất nhiều Đại Đạo sư ở vùng Kham thời bấy giờ như Dza Patrul Rinpoche và Jamgon Mipham mà còn cả từ các dòng phái khác. Cũng trong thời điểm này, các đại đạo sư vĩ đại nhất của Jonang vẫn xuất hiện đến tận cuối thế kỷ 20 như Ngài Bamda Geleg (1844-1904) và Ngài Khenpo Ngawang Lodro Drakpa (1920-1975).
Vào những năm 1960, nhiều Đạo sư vĩ đại của Jonang bị buộc ra khỏi tu viện, và họ đã phải di chuyển đến vùng thảo nguyên, sống như những người du mục hay ẩn náu trong các hang động như các vị Yogi. Trong hai thập kỷ tiếp theo, các Jonangpa sống vô gia cư trên chính quê hương của mình, canh tác suốt mùa hè để phục vụ cho mùa đông với mục đích duy trì dòng truyền thừa Jonang. Sau Cách mạng Văn hóa năm 1976, các Jonangpa quay trở về để sửa chữa tu viện và dòng truyền thừa được tiếp tục hoạt động cho đến tận ngày nay.
Bài viết có tham khảo từ trang
http://www.jonangfoundation.org/brief-history
và bài Việt dịch của Nhóm Rigpa Lotsawas được đăng tải lại trên trang kimcuongthua.vn và được hiệu đính bởi Sư Giác nhiên.