TIỂU SỬ TÔN GIẢ TARANATHA (Bản vắn tắt bởi kalachakra.vn)
Tên gọi khác: Kunga Nyingpo (Kun dga’ Snying po), Jetsun Taranatha (Rje brtsun tA ra nA tha), Taranatha (Grol ba’i Mgon po)
Năm sinh và viên tịch: 1575-1635
Bậc Thầy chính: Buddhagupta
- Sinh ra và được công nhận là hóa thân của Đại thành tựu giả Jvalanatha
Đức Jonang Jetsun Kunga Nyingpo hay thường gọi Ngài là Đức Taranatha, sinh ở Chokhor Ding vào ngày Tám tháng Sáu năm Mộc Hợi của chu kỳ [sáu mươi năm] thứ mười (1575). Taranatha là tên mà ông nhận được trong một linh kiến liên hệ tới tiền thân một bậc trưởng lão vĩ đại của Ấn Độ là Đức Jvalanatha . Cha của Ngài là ông Namgyal Puntsok, một hậu duệ của Ra Lotsawa và mẹ của Ngài là bà Dorje Buga Lhamo. Ngay khi cậu bé chào đời, ông của cậu đã đặt tên cho cậu là Pema Sicho Dorje. Khi được khoảng một tuổi, ngài tuyên bố: “Tôi là đạo sư Kunga Drolchok!” Nhưng điều này đã được giữ bí mật trong nhiều năm, và phải đến khoảng bốn tuổi, ngài mới được đưa đến tu viện Cholung Changtse của Kunga Drolchok và được chính thức công nhận là hóa thân của ngài Kunga Drolchok. Lên bốn tuổi, cậu bé được Khen Lungrik Gyatso thỉnh mời, theo yêu cầu của thủ hiến Nakartse, và được tấn phong ở Cholung Jangtse là vị tái sinh của Lama Kunga Drolchok[2]. Tại đó, Ngài bắt đầu tự học đọc và viết mà thậm chí không có sự trợ giúp của một giáo thọ. Lên tám tuổi, Ngài thọ giới xuất gia từ Đức Taklung Kunga Gyaltsen và nhận danh hiệu Kunga Nyingpo Tashi Gyaltsen. (Danh hiệu Taranatha được ban trong một linh kiến bởi đấng hóa hiện dẫn dắt Jvalanatha người Ấn Độ.)
- Đức Taranatha theo học từ mọi truyền thống tại Tây tạng một cách không bộ phái và sự thành tựu trí tuệ phi phàm:
Sau đó, ngài bắt đầu nhiều năm nghiên cứu và thực hành mãnh liệt dưới sự hướng dẫn của nhiều đạo sư vĩ đại, nhiều người trong số họ từng là đệ tử chính của Kunga Drolchok. Được hướng dẫn bởi đệ tử của Kunga Drolchok là Jampa Lhundrup, Taranatha lần đầu tiên nghiên cứu và thông thạo nhiều chủ đề khác nhau của Kinh điển và Mật điển. Với Đức Jampa Lhundrup vô cùng uyên bác, Ngài nghiên cứu nhiều tác phẩm liên quan đến Kinh điển và Mật điển. Ngài cũng thọ nhận các quán đỉnh và chỉ dẫn cho vô số pho giáo lý Sakya, đặc biệt là Đạo Và Quả (Lamdre) của dòng Sakya. Thời điểm này, ngài nhận được vô số giáo lý Mật thừa và quán đảnh, chủ yếu là truyền thống Sakya của Lamdre, từ một đệ tử khác của người tiền nhiệm là Doring Kunga Gyaltsen. Đệ tử của Kunga Drolchok là Dragtopa Lhawang Dragpa đã dạy Taranatha nhiều chỉ dẫn bí truyền, đặc biệt là Sáu Yoga của Naropa và Đại Thủ Ấn, khiến cho một nhận thức nguyên sơ siêu phàm khởi lên trong tâm trí của vị Tulku trẻ tuổi này. Khen Lungrik Gyatso ban cho Ngài sự trao truyền chính thức và gia trì về Sáu Nhánh Du Già của Kalachakra, bao gồm các quán đỉnh và chỉ dẫn cho Thời Luân Kim cang (Kalachakra) vinh quang. Ngài cũng thọ nhận trao truyền cho rất nhiều bản văn về những lời dạy của Đức Phật và các bộ luận. Từ Đức Khedrup Sangye Yeshe, Yeshe Wangpo và nhiều đạo sư khác, Ngài thọ nhận những quán đỉnh và chỉ dẫn liên quan đến các pho Giáo Pháp từ nhiều truyền thống khác nhau bao gồm Jonang, Shangpa, Zhalu, Drukpa, Kamtsang và Taklung. Jedrung Kunga Palsang, cháu trai của Kunga Drolchok và là người kế vị trụ trì tu viện Jonang, đã truyền cho Taranatha những giáo lý Kalachakra và Hộ Pháp Mahakala mà ông đã nhận được từ chú của mình. Từ đệ tử của Kunga Drolchok là Lungrik Gyatso, Taranatha đã nhận được nhiều trao truyền, đặc biệt là lễ quán đảnh Thời Luân, sự giải thích về Mật điển Thời Luân, những hướng dẫn bí truyền về sáu yoga theo truyền thống Jonang, và các tác phẩm được sưu tầm của Đức Pháp vương toàn trí Dolpopa Sherab Gyaltsen.
Từ trưởng lão Ấn Độ – Buddhaguptanatha, Ngài thọ nhận vô số quán đỉnh và chỉ dẫn Mật thừa về giai đoạn phát triển và hoàn thiện. Chính vị đạo sư đã nói rằng điều này tạo ra năm trăm khái niệm mới liên quan đến các tác phẩm Mật điển vô song mà trước kia chưa từng được biết đến ở Tây Tạng. Ngài cũng thọ nhận nhiều Giáo Pháp sâu xa từ chư đạo sư Ấn Độ – Nirvanasri, Purnavajra và các vị khác. Nhờ điều này và nhờ việc nghiên cứu ngữ pháp Phạn ngữ cùng vô số ngành khoa học bên ngoài và bên trong, Ngài đạt đến đỉnh cao của sự nghiên cứu. Nhờ rèn luyện trong những điểm trọng yếu của sự hành trì liên quan đến cả Kinh và Mật, Ngài chứng ngộ mọi phẩm tính của các giai đoạn và con đường và trở thành chúa tể của chư Yogi.
Năm hai mươi mốt tuổi ngài thọ giới Tỳ kheo và chọn trụ xứ tại ẩn thất của dòng Jonang. Tại đó, Ngài thiết lập truyền thống Giảng Giải Thời Luân Vĩ Đại và ban những chỉ dẫn mở rộng. Năm hai mươi sáu tuổi, Ngài du hành đến Radreng và những nơi khác. Khi Ngài thấy các bản văn Ấn Độ, sự tin tưởng chắc chắn của Ngài trở nên lớn đến mức Ngài giải thích Mật điển Yamantaka Kẻ Thù Đen bằng hai ngôn ngữ với sự sinh động và tốc độ lạ thường. Mọi người có mặt đều ngạc nhiên và dâng lời tán thán.
Một số hành giả và học giả Ấn Độ khác, cả theo đạo Phật và không theo đạo Phật, đã đến Tây Tạng vào thời của Taranatha, chẳng hạn như Balabhadra, Nirvanasri, Purnananda, Purnavajra và Krsnabhadra. Một số người trong số họ đã dạy cho ông những hướng dẫn sâu sắc, các chủ đề học thuật và cùng ông dịch các bản thảo tiếng Phạn sang tiếng Tây Tạng. Một số bản dịch của Taranatha hiện nay được đưa vào bộ sưu tập kinh điển Tây Tạng về Kangyur và Tengyur
- Đức Taranatha khôi phục giáo lý dòng truyền thừa Jonang:
Năm 1588 Jedrung Kunga Palzang, người đã theo chú của mình là Kunga Drolchok làm người nắm giữ trụ trì tu viện của Jonang, đã đăng quang Taranatha tại Jonang, mặc dù lễ tấn phong chính thức đã không diễn ra cho đến năm 1595.
Đức Taranatha tự thấy mình có trách nhiệm làm cho những hiểu biết sâu sắc của Pháp vương Dolpopa một lần nữa đến được với đông đảo các Phật tử Tây tạng. Ngài đã quyết tâm hồi sinh những gì ngài coi là dòng truyền thừa vô giá đang có nguy cơ bị thất truyền.
Trong những năm 1590, cẩm nang hướng dẫn của Chogle Namgyal, người thừa kế pháp của Dolpopa vẫn được sử dụng tại Jonang để dạy sáu yoga, nhưng rất ít người hiểu nguyên lý triết học của Dolpopa và những đứa con tinh thần của ông. Đức Taranatha thậm chí còn lo ngại hơn rằng một số vị trụ trì tu viện Jonang trước đây đã ban quán đảnh và chỉ dẫn theo truyền thống Jonang, nhưng cũng đã chỉ trích và bác bỏ những tuyên bố kim cương của Dolpopa về quan điểm tối thượng của zhentong, điều mà Taranatha cảm thấy là giáo lý này là bí mật. giáo lý của tất cả chư Phật và Bồ Tát. Mặc dù cá nhân Ngài từ chối bất kỳ khả năng nào để bác bỏ một hệ thống khác, nhưng giờ đây ngài cảm thấy cần phải bảo vệ quan điểm ban đầu của Dolpopa thông qua việc bác bỏ những ý kiến sai lầm, và thiết lập những giải thích đúng đắn theo dòng truyền thừa của ngài. Trong thời kỳ này, thầy của Taranatha, Jampa Lhundrup đã khuyên ngài khôi phục Đại Bảo Tháp Jonang mà Dolpopa đã xây dựng khoảng 260 năm trước tại Jonang. Taranatha dồn hết tâm huyết vào công việc này. Ngay trước khi công việc trùng tu hoàn tất, vào một buổi sáng nọ, Đức ngài đã có một linh kiến kỳ diệu. Trái đất và bầu trời dường như tràn ngập vô số người thuộc mọi mô tả đang đi về cùng một hướng. Ông tham gia cùng họ và đến một thung lũng hình tam giác màu đỏ với một ngọn núi pha lê đáng kinh ngạc ở trung tâm. Ngọn núi hoàn toàn chứa đầy những bảo tháp đáng kinh ngạc với nhiều kích cỡ khác nhau, và trong mỗi bảo tháp có vô số chư Phật và Bồ Tát đang nói qua nói lại về giáo pháp. Hoa từ trên trời rơi xuống như mưa, và nhiều dấu hiệu thần kỳ khác xảy ra. Tất cả mọi người đang cúng dường ngọn núi pha lê chứa đầy các bảo tháp và đồng thanh tụng một loạt bài kệ. Quá kinh ngạc, Taranatha hỏi về ngọn núi và được biết rằng đó là Bảo tháp Dhanyakataka, nơi Đức Phật lần đầu tiên giảng dạy Mật điển Thời Luân. Taranatha sau đó cảm thấy rằng có lẽ linh ảnh này đã xảy ra bởi vì mọi người đã làm việc rất tích cực để hoàn thành việc trùng tu Đại Bảo Tháp ở Jonang.
4. Ngài quyết tâm khôi phục Bảo tháp Jonang của Đức Dolpopa. Những linh ảnh về Shambhala xuất hiện:
Năm 1604, sau một thập kỷ nỗ lực phục hồi các giáo lý Jonang nguyên thủy, toàn bộ công trình của Taranatha bị đe dọa bởi xung đột chính trị nghiêm trọng giữa các vùng Jang (byang) và Tsang. Bản thân Jonang trước mắt có nguy cơ bị quân thù địch tấn công. Trong khi thiền định tại bảo tháp vĩ đại của Ngài Dolpopa, Đức Taranatha trở nên chán nản, và thấy mọi nỗ lực của mình sắp bị xóa bỏ và chính truyền thống có lẽ bị phá hủy, ông chỉ mong muốn được nhập thất, xa rời mọi rắc rối do những người mê lầm và cuồng nhiệt tạo ra. Nhưng sau đó Đức Dolpopa xuất hiện với Ngài trong một linh ảnh, khuyến khích rằng ông nên tiếp tục như trước và bảo đảm với Ngài rằng những nỗ lực của Đức Taranatha sẽ không vô ích. Đêm hôm sau Đức Taranatha cầu nguyện tới Tổ Dolpopa và trải nghiệm linh ảnh về một vị Bồ Tát đang đọc một câu thơ 4 câu. Kết quả của những sự kiện này là Taranatha cho biết ông đã nhận ra được ý định thực sự của Tổ Dolpopa như được thể hiện trong các giáo lý zhentong của ông, và sau cùng tất cả những điều không chắc chắn và nghi ngờ của ông đã hoàn toàn bị loại bỏ. Ông cảm thấy rằng một chiếc chìa khóa vĩ đại đã được đặt trong tay ông để mở ra mọi cánh cửa giáo lý của Đức Phật. Để bày tỏ sự chứng ngộ của mình, ông đã sáng tác một văn bản có vần thơ có tựa đề Trang hoàng của Trung Quán Zhentong, đây là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của ông chỉ dành riêng cho việc giải thích quan điểm zhentong. Đức Taranatha nói rằng ông đã nhận được nhiều lời tiên tri từ Tổ Dolpopa, và sau đó đã gặp ông ấy nhiều lần, cả thực tế lẫn trong giấc mơ. Ngài bình luận thêm: “Đó là lý do tại sao bây giờ tôi là một chuyên gia về quan điểm tính không của Đức Phật Dolpopa toàn tri vĩ đại và cam kết sẽ bảo vệ chính kiến thực sự của ngài.” Taranatha đã có vô số những hình ảnh như vậy trong suốt cuộc đời của mình. Ví dụ, nhiều lần trong những năm 1618 và 1619, ông đã trải qua những linh kiến về triều đình Kalapa của các hoàng đế Shambhala, nhìn thấy chính những người cai trị và nghe những lời dạy của họ. Ông cảm thấy rằng những hình ảnh này là kết quả của niềm tin của ông rằng quan điểm tối thượng của tất cả kinh điển và mật điển là zhentong Madhyamaka. Vào năm 1615, nhà cai trị đầy quyền lực của nhà Tsang là Desi Puntsok Namgyal đã cung cấp một mảnh đất đặc biệt cùng các vật tư và công nhân cần thiết để bắt đầu xây dựng một tu viện nhằm phục vụ như một trung tâm giảng dạy về ý nghĩa dứt khoát của giáo lý Đức Phật. Tu viện này, cuối cùng được hoàn thành vào năm 1628, đã trở thành nơi ở chính của Taranatha và được gọi là Takten Damcho Ling. Nhờ vậy Ngài đã thành lập tu viện Taktsen Damcho Ling Ngedon Gawe Tsal (Tên gọi đó nghĩa là Rừng Hoan Hỷ Của Ý Nghĩa Rốt Ráo, Vùng Đất Của Giáo Pháp Thù Thắng Vĩnh Cửu Vững Chắc).
5. Đức Ngài viên tịch và sự nghiệp vĩ đại để lại:
Không lâu trước khi Ngài qua đời, Đức Taranatha đã bổ nhiệm đệ tử của mình là Sangye Gyatso làm người kế vị trụ trì tu viện của Takten Damcho Ling và đưa ra nhiều tuyên bố mang tính tiên tri về truyền thống Jonang cũng như những rắc rối chính trị lớn sẽ sớm lan khắp Tây Tạng. Thật không may, Sangye Gyatso qua đời không lâu sau Taranatha. Do đó, một đệ tử khác của đạo sư vĩ đại, Kunga Rinchen Gyatso, được bổ nhiệm vào trụ trì tu viện và lãnh đạo truyền thống Jonang trong mười lăm năm tiếp theo.
Trong các đệ tử chính yếu của đạo sư, những vị tiếp tục hoạt động của Ngài, có chư vị trì giữ truyền thừa Jonang, bao gồm Tulku Sangye Gyatso, học giả uyên bác Yeshe Gyatso, viện trưởng vĩ đại Rinchen Gyatso và Lodro Namgyal uyên bác và thành tựu. Các đệ tử của Ngài cũng bao gồm vị cai quản Tsang – Phuntsok Namgyal và con trai của ông ấy, cũng như Changdak Tashi Tobgyal, và nhiều vị cai quản và thí chủ khác, những vị dũng mãnh hộ trì giáo lý.
Các trước tác được tuyển tập của đạo sư thù thắng bao gồm Trăm Hành Động Của Đức Phật, Lịch Sử Giáo Pháp Ở Ấn Độ, tiểu sử của nhiều học giả và thành tựu giả, các luận giải về Tâm Kinh, Phổ Hiền Hạnh Nguyện và nhiều bản văn khác, những giải thích về các thực hành phát triển và hoàn thiện cho Mật điển Thời Luân Kalachakra, Samvara và Mật Tập Guhyasamaja và nhiều tác phẩm bình giảng khác liên quan đến Kinh và Mật. Đặc biệt, Ngài đã biên soạn các tác phẩm như Trung Đạo Mở Rộng Của Tối Thượng Thừa, thứ trình bày tri kiến của tính Không không cố hữu (Zhentong). Ngài cũng biên soạn nhiều nghi lễ Mật thừa cũng như những lời tán thán, lời nguyện và v.v. Tổng cộng, Ngài viết hơn bốn mươi tập, làm sáng tỏ một cách toàn diện và chuẩn xác tri kiến của Kinh và Mật nói chung và truyền thống Jonangpa về Trung Đạo vĩ đại của ý nghĩa rốt ráo nói riêng. Ngài mở rộng sự trao truyền về Sáu Nhánh Du Già và giương cao cờ chiến thắng của giáo lý truyền thừa thực hành.
Theo cách này và những cách khác, Ngài là vô song trong việc phụng sự giáo lý nhờ giải thích, thực hành và hoạt động.
Cuối cùng, năm sáu mươi mốt tuổi, vào ngày Hai mươi tám tháng Ba Tây Tạng năm Mộc Hợi, Ngài xả bỏ Sắc thân và du hành đến cõi của Dược Sư Vương.
Nguồn tài liệu:
Adam Pearcey chuyển dịch Tạng-Anh năm 2019.
Nguồn Anh ngữ: https://www.lotsawahouse.org/tibetan-masters/alak-zenkar/brief-taranatha-biography.
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ. Tudeng Nima soạn.
Ngoài ra đã tham khảo bản dịch bằng tiếng anh từ https://jonangfoundation.org/jonang_master/taranatha/
Bởi Tiến sĩ Cyrus Stearns.
Tổng hợp và phiên dịch Việt ngữ có tham khảo từ trang thư viện Hoa sen bởi Jigme Akuppa tại Pháp Hội Kalachakra 2024 Jonangpa tại Việt Nam.
Mọi công đức hồi hướng tới Hạnh phúc bình phàm và Hỷ lạc tối thượng cho mọi hữu tình. Cầu nguyện tất cả những ai đọc về tiểu sử huy hoàng của Đức Taranatha sẽ có duyên lành cùng giáo lý Kalachakra và thấy được sắc tướng huy hoàng quang vinh của Thánh Bổn Tôn Kalachakra, nhờ vậy có thể du hành hoặc tái sinh vào cõi Shambhala và đắc Phật quả trong tương lai gần nhất.
Mọi sai sót của người dịch và xin thành tâm sám hối trước chư Thầy tổ và lòng từ bi của Thánh Bổn tôn Đức Kim cương Tát đỏa và Thánh Bổn Tôn Kalachakra.