• Tiếng Việt
  • English
Đức Rinchen Tsultrim (1297-1368)

Đức Rinchen Tsultrim (1297-1368)

Đức Rinchen Tsultrim   (1297-1368)

Giai đoạn: Các bậc đạo sư thời kỳ đầu Jonangpa (Thế kỷ 13-16)

Bậc Thầy chính (Jonang): Đức Dolpopa Sherab Gyaltsen, Đức Butön Rinchen Drup

Các truyền thống theo học: Jonang, Karma Kagyud, Sakya   

 

Đức Rinchen Tsultrim là một trong mười bốn đệ tử chính của Đức Dölpopa, đã tu học ở nhiều nơi khi còn trẻ, chẳng hạn như tu viện Kagyu ở Tsurpu ở miền Trung Tây Tạng và Tu viện Sakya ở Tsang. Từ Đức Dölpopa và những đại đệ tử khác của ngài, Đức Rinchen Tsultrim nhận được vô số giáo lý, đặc biệt từ truyền thống Kalachakra. Sau đó Ngài sống và giảng dạy ở miền Trung Tây Tạng, nhấn mạnh đến việc nghiên cứu và thực hành Kalachakra.   

  1. Bậc tái sinh từ Đức Đạo Sư Asanga

Đức Rinchen Tsultrim sinh ra ở Jangzing (byang rdzing). Ngài thọ giới sa di tại tu viện Nenying (gnas rnying) khi mới 8 tuổi và bắt đầu nghiên cứu giới luật tu viện, Ba la mật thừa, duy thức luận và vi diệu pháp và Bồ đề hạnh luận. Sau đó, ông đến tu viện Shalu (zhwa lu), nơi ông nghiên cứu nhiều môn học với nhiều đạo sư, đặc biệt là Pháp vương Butön Rinchen Drup (bu ston rin chen grub, 1290–1364), từ bậc thầy ông đã nhận được những giáo lý như Mật điển Hevajra và Bồ đề hạnh luận.

 

2. Học các giáo lý từ dòng Kagyud và Sakya:

Đức Rinchen Tsultrim tiếp theo du hành đến miền Trung Tây Tạng và học tập ở nhiều nơi khác nhau. Đặc biệt, tại tu viện Karma Kagyu vĩ đại ở Tsurpu (mtshur phu), ngài nhận Sáu Pháp của Naropa, sự trao truyền các chỉ dẫn Doha, cùng các giáo lý và quán đảnh khác từ hành giả yoga Tokden Drakseng (rtogs ldan grags seng, mất năm 1349).  Ngài cũng nhận những giáo lý như Mật điển Hevajra và những luận giải về Hevajra cùng một số quán đảnh quan trọng từ Đức Karmapa thứ III, Rangjung Dorje (karma pa rang byung rdo rje, 1284-1339), Ngài Karmapa đã rất hài lòng với ông và nhận ra ông là một hóa thân từ Đạo sư Ấn Độ Asanga, và ngài đã tặng ông một bức tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Sau đó Đức Karmapa bảo Rinchen Tsultrim hãy đến gặp Pháp vương toàn trí Dölpopa ở Jonang, nói rằng giáo pháp sẽ mang lại lợi ích lớn lao.  

 

Trên đường đến Jonang, Rinchen Tsultrim dừng lại ở nhiều nơi trong vùng Tsang, đặc biệt là Tu viện Sakya (sa skya), nơi ngài nhận giáo lý từ đạo sư Jikmey Drakpa (‘jigs med grags pa) và những người khác. Ở đó, ông nghiên cứu nhiều kinh điển và mật điển, chẳng hạn như Bộ ba Mật điển Hevajra,  Ba la mật thừa, duy thức luận và vi diệu pháp.    Tiếp đó, ngài du hành đến Tu viện Dzum Chölung (‘dzum chos lung) và tại đó Ngài nhận được nhiều chỉ dẫn khác nhau từ bậc Đạo sư lão thông Jarinpa (grub thob bya rin pa).

 

3. Diện kiến đức Phật Dolpopa của Jonang: 

Đức Rinchen Tsultrim cuối cùng đã đến tu viện Jonang trong khi Pháp vương Dölpopa đang giảng dạy Vimalaprabha (Giáo lý tịnh quang) cho khoảng hai trăm tu sĩ. Ngài ở lại với Dölpopa từ khi ngài 38 tuổi cho đến 58 tuổi. Trong những năm này, ngài đã thọ giới Tỳ kheo đầy đủ, lễ quán đỉnh Kalachakra vĩ đại trong cả hai truyền thống Dro (‘bro) và Ra (rwa), Tam tạng Bồ Tát (sems ‘grel skor gsum), mười bộ kinh có ý nghĩa dứt khoát, Các luận giảng Trung Đạo của Long Thọ, Năm Bộ Luận của Di Lặc, Bộ ba Mật điển Hevajra, các luận giảng về ba la mật thừa toàn thiện, duy thức luận, vi diệu pháp, các luận về giới luật tu viện, và vô số sự trao truyền khác của hiển giáo và mật truyền.   Đức Rinchen Tsultrim cũng nhận nhiều trao truyền Kalacakra từ các đệ tử lớn khác của Ngài Dölpopa, chẳng hạn như giáo lý Vimalaprabha từ Đức Kunpang Chödrak Palsang (kun spangs chos grags dpal bzang, 1283?–1363?), Kinh Lăng già (don dam bsnyen pa) và giáo lý Sekoddesha (dbang mdor bstan ) từ Đức Jonang Lotsawa Lodrö Pal (jo nang lo tsA wa blo gros dpal, 1299–1354), Giáo lý tịnh quang và yoga kim cang thời luân sáu nhánh từ Đức Mati Panchen (ma ti pan chen blo gros rgyal mtshan, 12941376), cũng như Vimalaprabha và những giáo lý khác từ Ngài Choley Namgyal (phyogs las rnam rgyal, 1306–1386). Khi Đức Rinchen Tsultrim   58 tuổi, ngài được mời đến tu viện Tölung Namgyal (stod lung rnam rgyal) ở miền Trung Tây Tạng, nơi ngài cư trú. Ông đã dạy giáo lý Tịnh quang và các chủ đề khác cho nhiều học trò và xây dựng một bức tượng lớn bằng vàng về Đức Phật Di Lặc ở đó. Bậc Thầy Mati Panchen được mời đến thực hiện lễ thánh hóa bức tượng, và sau đó Đức Rinchen Tsultrim   du hành đến Tu viện Gungthang (gung thang) và dạy yoga sáu nhánh của Kalachakra. Sau khi trở về Tölung Namgyal, ngài giảng dạy giáo lý Vimalaprabha trong ba năm tiếp theo. Khi ngài viên tịch vào năm 1368 vô số những linh ảnh, hiện tượng cát tường xảy ra cùng các dấu hiệu trên xương sau lễ trà tỳ của Ngài.  

 

Theo Jonang Foundation. Nguồn từ bản thảo của TS. Cyrus Stearns là một học giả có trụ sở tại bang Washington, Hoa Kỳ. Ông đã nhận bằng Tiến sĩ. từ Đại học Washington vào năm 1996.

Xuất bản tháng 8 năm 2008

 

Bản tóm tắt về cuộc đời của Đức Rinchen Tsultrim   này dựa trên tác phẩm về Đức Pháp chủ Dolpopa vĩ đại toàn tri, Người Cha tâm linh và Mười bốn đứa con tâm linh của Ngài. Chos kyi rje kun mkhen chen po yab sras bco lnga’i rnam thar nye bar bsdus pa ngo mtshar rab gsal, 611–15.

Văn bản này được bao gồm trong ‘Ấn bản Dzam Thang Dbu Can’ của Gsung ‘Bum, Vol. 1: 559–629. Cuốn sách Jangsem Gyalwa Yeshe (Byang sems rgyal ba ye shes), Cuốn sách của Jangsem Gyalwa Yeshe (Byang sems rgyal ba ye shes), Dpal ldan dus kyi ‘khor lo jo nang pa’i lugs kyi bla ma brgyud pa’i rnam thar, 143–209 

Tác phẩm sau đây cũng được sử dụng: Đèn trăng soi sáng Truyền thống Phật pháp Jonangpa vinh quang. Dpal Ldan Jo Nang Pa’i Chos ‘Byung Rgyal Ba’i Chos Tshul Gsal Byed Zla Ba’i Sgron Me, 35. Koko Nor: Krung Go’i Bod Kyi Shes Rig Dpe Skrun Khang.

Việt dịch Jigme Akuppa tại pháp hội Kalachakra Joangpa 2024 Việt Nam                

 

10/04/2024
0 bình luận