• Tiếng Việt
  • English
6 – Đức Chogle Namgyal (1306-1386)

6 – Đức Chogle Namgyal (1306-1386)

Tên gọi khác: ཕྱོགས་ལས་རྣམ་རྒྱལ།  Chokle Namgye

Bậc Thầy chính: Tổ thứ 4 Dolpopa

Bậc thầy khác: Buton Rinchen Drub (1290–1364)

 

1. Vai trò trong dòng truyền thừa Jonang:

Đức Chogle Namgyal (1306-1386), một trong mười bốn đệ tử chính của Dolpopa, là đạo sư duy nhất giữ trụ trì tu viện của Tu viện Jonang hai lần, tổng cộng khoảng hai mươi năm. Ngài viết nhiều tác phẩm quan trọng, đặc biệt là một loạt luận thuyết về sáu Yoga kim cương của Kalachakra dựa trên giáo lý của Dolpopa. Ông cũng biên soạn các chú giải cho Mật điển Kalachakra và Vimalaprabha (tịnh quang).

2. Nguồn gốc sinh thời

Đức Chogle Namgyal, người còn được biết đến với cái tên Chokyi Gyalpo, sinh ra ở vùng phía tây Ngari. Khi còn nhỏ, ngài đã nhận giáo lý từ nhiều đạo sư Tây Tạng và học tiếng Phạn với học giả Ấn Độ hoặc Nepal Umapati (U ma pa ti). Năm 1313, khi mới 8 tuổi, Ngài du hành đến vùng Tsang miền Trung Tây Tạng và bắt đầu nghiên cứu triết học Trung Đạo với vị Thầy lão luyện Tsangnakpa (Gtsang nag pa) và học từ những vị thầy khác. Ông cũng nghiên cứu duy thức luận, Các văn bản về Ba la mật thừa, Vi Diệu Pháp, Giới luật tu viện và các chủ đề Mật thừa ở các tu viện khác nhau trong một số năm.

3. Học tập

Năm 1325, Chogle Namgyal học tại tu viện lớn Sakya và Drakram. Tại thời điểm này, ông là người ủng hộ mạnh mẽ học thuyết rangtong (rang stong). Sau đó, Ngài viếng thăm nhiều tu viện ở miền Trung Tây Tạng và Tsang để nghiên cứu sâu hơn và trong chuyến đi này Ngài nhận được biệt danh Chogle Namgyal có nghĩa là “Bậc chiến thắng khắp mọi phương” bởi vì Ngài có kỹ năng tranh luận về giáo pháp một cách xuất sắc. Ngài trở lại các tu viện của Sakya, nơi Ngài lại chiến thắng trong cuộc tranh luận, và cũng du hành đến nhiều nơi khác ở miền Trung Tây Tạng và Tsang, bao gồm cả Tu viện Zhalu. Ở đó, ông nhận được giáo lý từ một bậc Đạo sư vĩ đại Buton Rinchen Drub (1290–1364), nhưng kết quả là ông vẫn không cảm thấy rằng mình đã đạt được hiểu biết sâu hơn.

 

Tiếp theo Chogle Namgyal quay trở lại Tu viện Drakram, nơi ngài nghe nói về danh tiếng đáng kinh ngạc của Pháp vương Dolpopa và cách thức ngài đã xây dựng một Đại bảo tháp kỳ lạ và chưa từng có ở Jonang. Khi nghe nói rằng Dolpopa đang giảng dạy một hệ thống không phù hợp với hầu hết các nguyên lý triết lý Phật giáo trước đây, Chogle Namgyal đã quyết định đến Jonang và đích thân thảo luận về vấn đề này bằng kinh điển và lý luận hợp lý. Thầy của Chogle Namgyal tại Drakram, Konchok Zangpo đã khuyến khích ông, nói rằng Dolpopa là một vị thánh vô song không giống bất kỳ ai khác ở Tây Tạng, và nhận xét rằng Chogle Namgyal có thể sẽ đạt tri kiến sâu sắc hơn khi gặp Đức Dolpopa.

4. Diện kiến Tổ Dolpopa đời thứ 4

Năm 1333, khi ngài đã hai mươi bảy tuổi, Chogle Namgyal đến Jonang đúng lúc Dolpopa vừa hoàn tất việc giảng dạy cho một hội chúng lớn. Ông đưa một lá thư cho một trong những thị giả của Dolpopa, xin được diện kiến, và được mời vào phòng của Đạo sư. Khi tấm màn được vén lên và ngài nhìn thấy thân thể rực rỡ không chịu nổi của Dolpopa, ngài phủ phục và bắt đầu run rẩy. Ông nhận thấy có hương thơm kỳ diệu của giới hạnh toàn hảo cùng những dấu hiệu thể chất chính và phụ của một vị Phật trên thân Dolpopa, Chogle Namgyal ngay lập tức cảm thấy rằng Dolpopa thực sự là một vị Phật. Anh ta dâng một món cúng dường nhỏ và Dolpopa hỏi về gia đình anh ta và anh ta từ đâu đến. Không thể kiểm soát được giọng nói run rẩy của mình, Chogle Namgyal trả lời rằng ông đến từ Ngari và đã đến miền Trung Tây Tạng và Tsang để học tập. Họ đã có một cuộc trò chuyện chi tiết và sau đó Dolpopa giảng sâu sắc hơn qua sự so sánh thừa của các hạnh toàn hảo (Bồ tát hạnh), Duy thức luận, Vi Diệu Pháp, và cả Giới luật. Khi Chogle Namgyal nghe những lời giảng dạy của Đức Dolpopa và vô số trích dẫn kinh điển mà ông chưa từng biết, ông cảm thấy mình như vũng nước trong 1 dấu móng của con bò cạnh sông Hằng so với nước Sông Hằng vĩ đại, và ngài chợt nghĩ, “Mình đã chưa thực sư hiểu biết về Pháp đến như vậy!”

 

Chogle Namgyal đã thỉnh cầu giáo lý Kalachakra, và Dolpopa đã ban quán đảnh Kalachakra vĩ đại cũng như  dạy về các thực hành ở giai đoạn thành tựu của 6 yoga thời luân kim cương và luận giải về Vimalaprabha vĩ đại (Đại tịnh quang) trong Mật điển Kalachakra. Ban đầu Ngài Chogle Namgyal cảm thấy khó hiểu những giáo lý này, nhưng ngay sau đó khi ông nhận được bình giảng về mật điển một lần nữa từ Ngài Dolpang Chodrak Palsang (1283?–1363?) một đại đệ tử của Dolpopa và nghiên cứu những điểm then chốt của hệ thống giáo lý này nhờ vậy ông đã đạt được một thành tựu xuất sắc về tri kiến hiểu biết giáo lý. Sau đó, một lần nữa, ông cũng nhận được các giảng dạy về ngữ pháp tiếng Phạn và nhiều chủ đề khác, bao gồm cả giáo lý Vimalaprabha từ đại đệ tử của Dolpopa là Mati Panchen (1294−1376). Trong những năm này Chogle Namgyal đã nhận được toàn bộ giáo lý của đức Dolpopa trong cả 2 khía cạnh công truyền và bí truyền.

 

Ở tuổi ba mươi bốn, Chogle Namgyal du hành đến Lhasa để mạ vàng những bức tượng nổi tiếng của Đức Phật ở các ngôi chùa Jokhang và Ramoche. Sau đó, ông từ chối nhiều lời mời giảng dạy và thay vào đó quay trở lại Jonang để ở cùng Dolpopa, nơi ông cũng nhận được nhiều giáo lý từ đại đệ tử của Dolpopa là Jonang Lotsawa Lodro Pal (1299–1354). Chogle Namgyal tiếp theo được mời đến Ngamring, nơi ông giảng dạy Vimalaprabha và được bổ nhiệm vào tu viện khi ông ba mươi chín tuổi. Khi Jonang Lotsawa, người giữ trụ trì tu viện ở tu viện Jonang, qua đời vào năm 1354, Dolpopa đã mời Chogle Namgyal trở lại Jonang và ông đảm nhận trụ trì tu viện trong bốn hoặc sáu năm tiếp theo. Sau đó ngài lui về ẩn thất ở Sem Karchung.

5. Tái đảm nhiệm trụ trì tu viện Jonang đời thứ 5 và viên tịch:

Sau khi Dolpopa viên tịch vào năm 1361, Chogle Namgyal trở lại Jonang và đảm nhận cương vị Tu viện trưởng một lần nữa trong mười lăm năm tiếp theo. Ông đã dạy giáo lý Vimalaprabha ở đó khi ông sáu mươi tuổi. Ở tuổi bảy mươi hai, Ngài du hành tới Lhasa và miền Trung Tây Tạng, nơi Ngài giảng dạy những giáo lý Kalachakra nâng cao mở rộng. Sau khi trở về Jonang, Ngài lại được mời đến Sem Karchung, và chỉ nhờ khả năng thấu thị của mình, Ngài mới thoát khỏi cuộc phục kích trên đường của lãnh chúa độc ác Jangpa Siddhi (Byang pa sid d+hi) và quân của hắn, những kẻ trước đây đã sát hại bậc thầy Jonang vĩ đại Kunpang Chodrak Palsang (1283?–1363?) trong hoàn cảnh tương tự. Đức Chogle Namgyal sau đó viên tịch ở tuổi 81. Nhiều sự kiện kỳ diệu khác nhau đã xảy ra trong lễ trà tỳ, những linh ảnh và xá lợi kỳ diệu xuất hiện trong hài cốt của ông sau khi hỏa táng đã đem tới đức tin sùng tín của các đệ tử.

Xin tìm hiểu thêm về vị Trụ trì thứ 4: Đức Phật Dolpopa

và vị trụ trì thứ 5:Đức ngài  Lotsawa Lodro Pal

Tiếp theo: vị trụ trì đời thứ 7: Đức Sazang Mati Panchen Lodro Gyaltsen (1294-1376)

Nguồn tài liệu: (Jonang foundation) và https://treasuryoflives.org/biographies/view/Chokle-Namgyel/2812:

Bản tóm tắt về cuộc đời của Đức Chogle Namgyal này dựa trên tác phẩm của Jonang Trụ trì Rgyal ba Jo Bzang Dpal Bzang Po. Những điều kỳ diệu rực rỡ:

Tiểu sử viết tắt của Pháp chủ vĩ đại toàn trí, Người cha tâm linh và Mười bốn đứa con tâm linh của Ngài. Trong tiếng Tây Tạng, Chos kyi rje kun mkhyen chen po yab sras bco lnga’i rnam thar nye bar bsdus pa ngo mtshar rab gsal, 582–88.

Trong Tuyển Tập Tác Phẩm của Kun Mkhyen Dol Po Pa Shes Rab Rgyal Mtshan. ‘Dzam thang: 1, 559–629 và được xuất bản ở Byang sems Rgyal ba ye shes. Tiểu sử của các Đạo sư trong Truyền thống Jonangpa về Thời Luân Vinh Quang. Dpal ldan dus kyi ‘khor lo jo nang pa’i lugs kyi bla ma brgyud pa’i rnam thar, 143–209. Bắc Kinh: Mi Rigs Dpe Screened, 2004.

Các tác phẩm sau cũng được sử dụng: (1) Ngag dbang Blo gros grags pa. Đèn trăng soi sáng Truyền thống Phật pháp Jonangpa vinh quang. Trong tiếng Tây Tạng, Dpal ldan jo nang pa’i chos ‘byung rgyal ba’i chos tshul gsal byed zla ba’i sgron me, 37–38. Koko Nor: Krung go’i bod kyi shes rig dpe skrun khang, 1992.

(2) TA ra nA tha). Thảo luận cần thiết về Nguồn gốc của các Pháp luân của Thời Luân Vinh Quang. Trong tiếng Tây Tạng, Dpal dus kyi ‘khor lo’i chos bskor gyi byung khung nyer mkho, 36–39. Trong Tuyển Tập Jo nang Rje btsun TA ra nA tha, 2, 1–43. Leh: Smanrtsis Shesrig Dpemdzod, 1983.

 

Được đóng góp của Cyrus Stearns. Được biên tập bởi Michael Sheehy.

Việt dịch: Jigme Akuppa đóng góp tới Pháp hội KALACHAKRA JONANG 2024 tại Việt Nam.

Xin sám hối mọi lỗi lầm trong bản dịch về ngữ nghĩa và cú pháp cũng như cách hành văn.

 

 

04/04/2024
0 bình luận