Đức Drigung Lotsāwa Maṇikaśrījñāna (1289-1363)
Ngài Drigung Lotsāwa (‘bri gung lo tsA ba) sinh ra ở Gyerpu (gyer phu) vào năm 1289. Ngài bắt đầu tu học chính thức tại Tu viện Sangpu (gsang phu), nơi Ngài thọ giới sa di và pháp danh Norbu Pel Yeshe (nor bu dpal ye shes). Sau đó ông được biết đến rộng rãi dưới dạng tiếng Phạn của cái tên này, Maṇikaśrījñāna.
Sau khi học tập tại nhiều tu viện ở U-Tsang, ngài du hành đến tu viện lớn Sakya (sa skya) ở Tsang, nơi ngài trở thành Bậc thầy về thừa phương tiện ba la mật, Duy thức luận và vi diệu pháp dưới sự hướng dẫn của Bậc Đạo sư danh hiệu là Jamyang Chokyi Gyeltsen (‘jam dbyangs chos kyi rgyal mtshan). Tiếp theo, ngài đến Tu viện Drakram (brag ram), nơi ngài thọ giới đại giới từ trụ trì Konchok Sangpo (dkon mchog bzang po) và thông thạo kinh điển về giới luật tu viện. Ông cũng nghiên cứu ngữ pháp và thi pháp tiếng Phạn dưới sự hướng dẫn của học giả vĩ đại Buton Rinchen Drub (bu ston rin chen grub, 1290–1364) tại Tu viện Zhalu (zhwa lu).
Sau đó Maṇikaśrījñāna đến thăm tu viện Kagyu rộng lớn ở Drigung (‘bri gung) ở Tây Tạng. Tại đây, ông học ngôn ngữ Ấn Độ, ngữ pháp tiếng Phạn và chữ viết Ấn Độ dưới sự hướng dẫn của paṇḍita Dvaṣṭanakara (dwa ShTa na ka ra) của Ấn Độ, sau đó ông được biết đến với cái tên Drigung Lotsāwa (‘bri gung lo tsA ba), Dịch giả của Drigung. Ông cũng nghiên cứu các phương ngữ nói của khu vực phía đông và phía tây Ấn Độ dưới thời Bậc A xà lê Vatikara (a tsa ra wa ti ka ra) của Ấn Độ. Từ người nắm giữ trụ trì tu viện ở Drigung, ngài nhận được vô số giáo lý đặc biệt, chẳng hạn như Sáu Pháp của Niguma, Sáu Pháp của Nāropa, và các giáo huấn Đại Ấn. Sau một thời gian, ngài được bổ nhiệm vào tu viện Drigung, và tất cả sách vở, hình ảnh, v.v. của các vị trụ trì trước đây đều được cúng dường cho ngài. Ngài đã sống và giảng dạy tại Drigung trong năm năm.
Sau đó Drigung Lotsāwa nghe tin rằng Dolpopa Sherab Gyeltsen (dol po pa shes rab rgyal mtshan, 1292-1361) đã đến U-Tsang và lập trại lớn của mình tại Tu viện Nyetang (snye thang). Ngài đến Nyetang, nơi có rất nhiều người từ U và Tsang tụ tập và gặp Dolpopa. Theo thánh tích của ông, khi trò chuyện với Dolpopa, ông cảm thấy mình chỉ là một con đom đóm trước sự hiện diện của mặt trời, và từ đó luôn ở bên cạnh đạo sư Jonang vĩ đại. Ông nhận từ Dolpopa lễ quán đảnh Thời Luân và nhiều hướng dẫn khác nhau về yoga sáu nhánh của Kim cương Thời Luân – Kalachakra, mà sau này ông đã viết những cuốn cẩm nang luận giải hướng dẫn về giáo lý thực hành này. Cuối cùng, Ngài đã nhận tất cả giáo lý công truyền và mật truyền từ Đức Dolpopa, chẳng hạn như giáo lý Tịnh Quang Vimalaprabhā trong mười sáu dịp khác nhau.
Sau khi Dolpopa viên tịch vào năm 1361, Drigung Lotsāwa lui về ẩn thất tên là Drakkar Choteng (brag dkar chos steng), nơi ngài chủ yếu thực hành thiền định, mặc dù ngài cũng dạy nhiều đệ tử về duy thức luận và Vimalaprabhā trong khoảng thời gian ba năm. Với sự thúc giục của nhà vua Sengetse (seng ge rtse ba), Drigung Lotsāwa có lần đã ban quán đảnh Kalachakra của truyền thống Dro (‘bro) cho khoảng ba trăm tu sĩ, vào thời điểm đó, người ta nói rằng bầu trời tràn ngập ánh sáng cầu vồng. , một cơn mưa hoa rơi xuống và mọi người nhìn thấy ngài đặt chuông và chày kim cương trong không gian và bay lên bằng cả hai chân trên mặt đất.
Sau đó ngài du hành đến vùng Nyangto (nyang stod), nơi Bậc Thầy Jonang Nyawon Kunga Pel (nya dbon kun dga’ dpal, 1285-1379), cũng là một đệ tử chính của Đức Dolpopa, đã mời ngài đến Tu viện Tsechen (rtse chen dgon). Ngài cũng được mời đến cung điện ở Gyantse, nơi Ngài ban giáo lý cho nhà vua và quý tộc trong một tháng. Vào cuối chuyến thăm này, Drigung Lotsāwa đã tranh luận với 25 học giả chuyên môn trong bốn ngày, đánh bại họ và do đó đã truyền bá học thuyết về quan điểm zhentong (gzhan stong) của Tổ Dolpopa.
Sau đó, ngài được mời đến Tu viện Jonang (jo nang dgon), tại đó Ngài đã khóc khi tưởng nhớ đến lòng tốt của Bậc Thầy Dolpopa và trải qua một linh kiến trong đó ngài nhìn thấy rõ hình tướng một nghìn cánh tay của Quán Thế Âm tại bảo tháp vĩ đại của Dolpopa. Ngài ở lại Jonang trong tám năm, trong thời gian đó người làm trụ trì tu viện đã giảng dạy KALACHAKRA buổi sáng cho hội chúng và dạy Vimalaprabhā vào bài giảng buổi chiều. Khi ngài đã 72 tuổi và thấy khó khăn khi ngồi và đi lại, ngài vẫn nhận lời mời đến ẩn thất Khading Pungpo (mkha’lding phung po), ở đó ngài giảng dạy giáo lý Tịnh quang Vimalaprabhā trong hai năm.
Ở tuổi 75, Đức Drigung Lotsāwa đã chính thức viên tịch sau khi đã gửi tất cả phẩm vật cúng dường từ giáo lý của ngài đến Đại bảo tháp ở Jonang. Nhiều sự kiện kỳ diệu được cho là đã xảy ra sau khi ông qua đời và trong quá trình trà tỳ hỏa táng, và rất nhiều những linh ảnh và biểu tượng kỳ diệu đã được tìm thấy trong xương trà tỳ của Ngài sau lễ Hỏa táng.
Theo kênh Jonang Foundation và treasuryoflives.org
Đóng góp của TS. Cyrus Stearns ĐH Washington 1996.
Việt dịch Jigme Dawa Akuppa.